|
Ảnh minh họa. Nguồn: MPI |
Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 đã tạo dựng khung pháp lý quan trọng điều chỉnh hoạt động mua sắm, quản lý sử dụng vốn, tài sản của nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, mua sắm bằng nguồn ngân sách nhà nước. Tỷ lệ tiết kiệm thông qua đấu thầu luôn được duy trì ổn định, tỷ trọng các gói thầu áp dụng các hình thức kém cạnh tranh (như chỉ định thầu, đấu thầu hạn chế) ngày càng giảm.
Luật đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh đấu thầu qua mạng, tạo chuyển biến toàn diện trong công tác đấu thầu, đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch, cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trong hoạt động đấu thầu, tạo niềm tin cho các cơ quan, đơn vị trong triển khai đấu thầu. Tỷ lệ thực hiện đấu thầu qua mạng trong những năm qua luôn đạt và vượt chỉ tiêu do Chính phủ quy định.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Đấu thầu trong thời gian qua cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải sửa đổi toàn diện bởi những lý do như: đến nay các Luật có liên quan đến Luật Đấu thầu đã được sửa đổi, bổ sung hoặc được ban hành sau khi Luật Đấu thầu được Quốc hội khóa XIII ban hành năm 2013 (Luật Xây dựng, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Kiến trúc, Luật PPP…). Do đó, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Đấu thầu có liên quan đến các Luật nêu trên nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa các Luật.
Bên cạnh đó, thực tiễn công tác mua sắm, đấu thầu trong thời gian qua đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi bổ sung quy định của pháp luật đấu thầu để đáp ứng đòi hỏi cấp bách trong việc mua sắm phục vụ công tác phòng chống dịch bệnh; cải tiến quy trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư nhằm góp phần thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, sớm đưa công trình vào khai thác, kịp thời phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Trong quá trình triển khai Luật đã phát sinh nhiều trường hợp cần lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư nhưng chưa được Luật quy định. Việc lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP vốn được quy định tại Luật Đấu thầu, nay đã được quy định thống nhất tại Luật PPP. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu để bảo đảm điều chỉnh toàn diện các hoạt động đấu thầu lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.
Luật Đấu thầu đã có quy định nhưng chưa đầy đủ để khuyến khích sản xuất hàng hóa trong nước thay thế hàng hóa nhập khẩu; ưu đãi đối với hàng hóa sản xuất trong nước; quy định về mua sắm hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ được cung cấp từ các nhóm yếu thế trong xã hội như thương binh, phụ nữ, người khuyết tật…; ưu đãi cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; mua sắm đối với các sản phẩm đổi mới sáng tạo; mua sắm xanh nhằm mục tiêu phát triển bền vững…; quy trình, thủ tục lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư mặc dù đã được đơn giản hóa nhưng trong một số trường hợp vẫn còn có thể cải cách tốt hơn; việc thi hành pháp luật của một số người có thẩm quyền, chủ đầu tư, bên mời thầu còn có mặt hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm quyết định một số vấn đề về đấu thầu cho cấp trên, các Bộ và Thủ tướng Chính phủ. Tình trạng vi phạm pháp luật về đấu thầu nhìn chung có chiều hướng giảm nhưng hành vi “Thông thầu” vẫn diễn biến phức tạp, tinh vi ở không ít dự án, gói thầu.
Luật Đấu thầu chưa quy định đầy đủ về quy trình kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, đặc biệt là công tác kiểm tra kết quả thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra, giám sát và mới chỉ tập trung quy định về chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm của nhà thầu, nhà đầu tư mà chưa có quy định cụ thể về chế tài xử lý vi phạm đối với bên mời thầu, chủ đầu tư, người có thẩm quyền (là các bên quan trọng trong việc quyết định đến tính hiệu quả, minh bạch trong đấu thầu). Bên cạnh đó, Luật cũng chưa có quy định về chế tài xử lý đối với trường hợp các cơ quan có thẩm quyền buông lỏng việc kiểm tra, giám sát, giải quyết kiến nghị trong đấu thầu dẫn đến hiệu quả của việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết kiến nghị về đấu thầu trong thời gian qua chưa đạt hiệu quả.
Hiện nay, Việt Nam đã ký kết tham gia một số Hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA… Trong các Hiệp định này đều có Chương về Mua sắm Chính phủ, trong đó có một số điểm khác biệt so với Luật Đấu thầu (được xây dựng từ năm 2012, 2013 khi Việt Nam chưa ký kết CPTPP, EVFTA…). Do đó, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Luật Đấu thầu cho phù hợp với các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên nhằm bảo đảm thực thi đúng các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Mục tiêu xây dựng dự án Luật nhằm tiếp tục tạo dựng môi trường pháp lý đồng bộ, thống nhất có hiệu lực, hiệu quả về mua sắm công. Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật, nâng cao chất lượng, hiệu quả và bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch của công tác đấu thầu, góp phần hạn chế tình trạng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp thông qua hoạt động đấy thầu.
Thúc đẩy sản xuất trong nước, mua sắm các sản phẩm đổi mới sáng tạo, mua sắm xanh nhằm mục tiêu phát triển bền vững và tạo công ăn việc làm cho nhóm lao động yếu thế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững thông qua hoạt động đấu thầu. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đấu thầu và cơ chế kiểm tra, giám sát, giải quyết kiến nghị trong hoạt động đấu thầu.
Quan điểm xây dựng dự án Luật là thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Chính phủ về hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhà nước thông qua đấu thầu; tạo môi trường bình đẳng, cạnh tranh, minh bạch trong mua sắm công; thúc đẩy sản xuất trong nước; thúc đẩy sản xuất gắn liền với tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.
Bảo đảm tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Bảo đảm sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các thỏa thuận, cam kết quốc tế có liên quan; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước liên quan đến nội dung chính sách (nếu có) để bảo đảm sự tương đồng giữa pháp luật Việt Nam với thông lệ tốt của quốc tế./.
Tùng Linh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư